Nghe một người bạn kể về Frank Gerke Trịnh Công Long, tôi đã rất tò mò nên tìm bằng được người có cái tên khá “ấn tượng” này. Tiếp tôi là một người đàn ông ngoại quốc cao lớn, không quên thắp một nén hương cho nhạc sỹ Trịnh Công Sơn trước khi say sưa nói chuyện…
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cho tôi họ Trịnh
– Người ta rất lạ khi nghe tên một “ông Tây” với cái tên Việt Nam lại rất gần với tên của một nhạc sỹ rất nổi tiếng được hàng vạn người yêu mến, tại sao ông lại có cái tên này?
Frank Gerke Trịnh Công Long (phải) cùng cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
– Tôi tuổi Rồng được một thầy giáo ở Hồng Kông đặt tên là Long nhưng không có họ và tên đệm. Một ngày tôi đến nhà anh Sơn uống rượu tôi nhớ đó là năm 1997, hai người nói chuyện rất nhiều.
Truớc đó 2 năm tôi cũng đã gặp anh Sơn. Anh Sơn coi tôi như anh em họ hàng và nói “Long có tên rồi nhưng chưa có họ và chữ lót bằng tiếng Việt, thì thôi em cứ lấy họ và chữ lót của anh nhé”. Thế là tôi có cái tên Trịnh Công Long như bây giờ.
– Duyên cớ nào mà ông đã gặp được nhạc sỹ Trịnh Công Sơn?
– Năm 1995, khi hội chợ sách Frankurt – Đức diễn ra tại Sài Gòn, tôi đã làm tư vấn cho hội chợ và rất muốn mời nhiều văn nghệ sỹ nhưng tôi đã không biết ai ở Sài Gòn. Tôi đã chủ động tìm gặp nhà văn Nguyễn Quang Sáng mời ông đến dự lễ khai mạc.
Khi còn là học sinh trung học tại thành phố Bremen (CHLB Đức), tôi có mấy người bạn là người Việt Nam một người trong số họ đã tặng tôi một cuốn băng cassette ca khúc Trịnh Công Sơn – Sơn ca 7. Tôi đã thích và nghe đi nghe lại nhiều lần, khi học tiếng Việt tôi càng thích cuốn băng cassette này.
Tôi muốn mời nhạc sỹ Trịnh công Sơn nhưng không có địa chỉ đành lên hỏi Hội âm nhạc thành phố, nhạc sỹ Hoàng Hiệp đã giúp đỡ tôi.
Buổi chiều tôi đến địa chỉ nhà anh Sơn tại 47C Phạm Ngọc Thạch, khi nhìn anh Sơn tôi đã khoanh tay “Chào bác!”, đột nhiên anh Sơn và mọi người cười ầm lên, anh vỗ vai tôi và nói “Long gọi tôi là anh là được rồi, gọi bằng bác tôi thấy mình già lắm!”.
Anh Sơn đã nhận lời tham gia lễ khai mạc, còn tôi thì từ hôm đó hầu như trưa nào cũng qua nhà anh Sơn nhắm rượu.
Từ trái sang: Bảo Phúc, Trịnh Công Sơn, Frank Gerke Trịnh Công Long và Từ Huy
Anh Sơn còn giới thiệu rất nhiều văn nghệ sỹ cho tôi như nhạc sỹ Bảo Phúc, Từ Huy, Thanh Tùng, Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập… Bây giờ chúng tôi vẫn là bạn.
– Trong những “bữa rượu” nhạc sỹ Trịnh Công Sơn thường hay nói chuyện gì với ông?
– Anh Sơn nói về những ca khúc và cảm xúc, tình cảm đối với xã hội, bạn bè kể cả những người xa lạ. Anh có tấm lòng bao la khi sáng tác những ca khúc không loại trừ thành phần nào cả.
Anh muốn những ca khúc đến với mọi người như một món ăn tinh thần, như những bữa “rau quả” trong đời sống bình dân chứ không phải “thịt cá” tiệc tùng. Anh Sơn luôn nhắc bạn bè hát những ca khúc của anh đễ khỏi lãng quên.
Khán thính giả Đức rất thích ca khúc Trịnh Công Sơn
Một vài nét về Frank Gerke Trịnh Công Long
Sau khi thi tú tài học Hán học, Đông Nam Á học, Ngôn ngữ học và Triết học cũng như tiếng Trung Quốc tại các trường Đại học Berlin, Bonn, Hồng Kông, năm 1993 Frank Gerke Long sang Việt Nam lần đầu tiên, nghiên cứu văn học Việt Nam nhằm viết luận án tiến sĩ So sánh văn học VN và văn học Trung Quốc hiện đại (bảo vệ xong năm 2005).
Frank Gerke Long chơi thân với nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam như Trịnh Công Sơn, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy v.v… Vì sinh năm Rồng nên được Trịnh Công Sơn đặt cho tên tiếng Việt là Trịnh Công Long.
Trịnh Công Long đã từng dịch ca từ của Trịnh Công Sơn sang tiếng Đức cũng như thơ ca Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Duy và văn xuôi Nguyễn Quang Sáng, Phan Thị Vàng Anh.
Hiện nay Frank Gerke Trịnh Công Long sống và làm việc tại Hà Nội.
– Nhiều ca từ trong mỗi ca khúc của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn ngay cả những người bản xứ còn khó hiểu, ông lại là một người ngoại quốc ?
– Trước đây, tôi luôn mong muốn được dịch những ca khúc của anh Sơn sang tiếng Đức. Từ năm 1996 đến năm 1998, tôi làm dự án tại Buôn Mê Thuột, thời gian rảnh tôi lấy những ca khúc của anh ra dịch, có những lần hôm đang dịch nhưng không hiểu lại điện thoại về cho anh Sơn 5 – 10 lần/ngày, lúc nào cũng: “Em có câu này đang dịch nhưng không hiểu”.
Anh Sơn lúc nào cũng vui lòng trả lời đến khi tôi hiểu ra. Tôi nhớ có lần anh nói với tôi: “Long muốn hiểu những bài của mình, Long luôn phải hiểu thế giới riêng của mình nữa”.
Tâm sự và nói chuyện nhiều dần dần tôi cũng hiểu ra được tính cách, phong thái, suy nghĩ của anh Sơn cũng như tình cảm anh dành cho bạn bè.
– Vậy ông đã “thấm” những ca khúc của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn như thế nào?
– Tôi so sánh đời sống, cách ăn mặc, cách chơi của anh Sơn và tôi, vả cảm nhận mỗi ca khúc sâu sắc hơn. Những gì anh Sơn “thổi” vào mỗi ca khúc là cách nhìn về đời sống, con người, xã hội được diễn tả rất chân thực.
Anh Sơn đã sáng lập ra một ngôn ngữ riêng trên cơ sở tiếng Việt, sử dụng những từ ngữ một cách rất “lạ”. “Môi nào hãy còn thơm cho ta phơi cuộc tình” người ta chỉ phơi quần phơi áo, phơi đồ vật chứ không ai “phơi” những cái riêng tư ra cả, chỉ riêng Trịnh Công Sơn là đem “phơi cuộc tình”.
Rồi “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Sỏi đá là những thứ vô tri vô giác mà nhưng anh Sơn muốn nói đến một tình yêu mãnh liệt. Nhiều từ mà anh Sơn dùng không thích hợp với thói quen, nhưng anh vẫn có một ý đồ để người ta có thể hiểu được, không vượt qua ranh giới nhất định.
– Ông có mang những tác phẩm của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn về giới thiệu với bạn bè của đất nước mình không?
– Có chứ! Khi tôi là giáo viên của ĐH Bonn (CHLB Đức), tôi đã dịch một số ca khúc của anh Sơn sang tiếng Đức và treo lên tường, học sinh rất thích. Một số ca khúc của anh Sơn có những địa danh của Việt Nam nhưng khi tôi dịch, tôi đã “biến” địa danh Việt Nam thành địa danh của Đức vẫn rất hay ví dụ như “Tình ca người mất trí”. Ca khúc của anh Sơn đặc biệt ở chỗ đó!
Chuyện trả tiền tác quyền là hợp lý
– Nhạc sỹ sống bằng nghề viết nhạc và ông thấy Trịnh Công Sơn cũng đã vậy chứ?
– Anh Sơn đã nghĩ âm nhạc là nghề nghiệp, sống bằng nghề. Tôi nhớ khi sáng tác ca khúc “Ướt mí”, anh Sơn đã bán cho một NXB trong Sài Gòn, nếu tôi nhớ không nhầm đó là NXB An Phú với giá 2000 đồng Đông Dương. Anh Sơn đã nộp cho gia đình 1.500 đồng còn 500 đồng giữ, mỗi lần anh mời một cô gái đi ăn hết 50 đồng.
Trước đó gia đình anh Sơn đã để ý vấn đề này còn anh Sơn thì không để ý mấy.
– Ông có để ý thấy, gần đây những người yêu nhạc Trịnh đang xôn xao về việc bà Trịnh Vĩnh Trinh – đại diện cho gia đình NS Trịnh Công Sơn gửi văn bản và đòi tác quyền ở những phòng trà mà hát nhạc Trịnh không?
– Có! Tôi có thường xuyên đọc tin tức. Tôi thấy việc đòi tác quyền là một việc rất hợp lý đối với anh Sơn nói riêng và các nhạc sỹ nói chung.
Nhưng việc đưa ra một con số có cụ thể có phù hợp hay không thì chị Trinh và Trung tâm bản quyền nên ngồi với nhau để đưa ra hướng giải quyết. Chị Trinh cũng đã nói rất rõ lúc nào cũng có thể bàn bạc thương lượng, chị đã phân biệt rất rõ kinh doanh và mang tính quần chúng xã hội.
Trịnh Công Sơn thể hiện ca khúc Hoa vàng mấy độ trong ngày sinh nhật ông năm 1997
Nếu một chương trình tổ chức hát những ca khúc của anh Sơn có bán vé thì việc trả bản quyền là đương nhiên. Tôi biết có những hội sinh viên yêu thích nhạc Trịnh, họ thường xuyên ngồi hát cho nhau nghe thì chị Trinh cũng sẽ vui lòng thôi.
Ai hát cũng được, miễn là hiểu Trịnh
– Nhiều người nói “Nhạc Trịnh Công Sơn chỉ có Khánh Ly hát hay”, ông nghĩ sao?
– Tôi nghĩ đó là sai lầm, mỗi người có một phong cách và cảm thụ khác nhau. Khi bắt đầu nổi tiếng, Khánh Ly đã hát nhạc Trịnh nên khán giả đã quá quen với hình tượng này thậm chí có người còn không muốn chấp nhận ca sỹ nào khác hát nhạc Trịnh.
Khánh Ly hát quyến rũ nhưng không hay về mặt kỹ thuật nhưng người ta vẫn thấy hay bởi giọng mộc mạc của cô. Khánh Ly là người rất vui tính và hiểu được nhạc sỹ Trịnh Công Sơn.
– Tiếp xúc với nhạc sỹ Trịnh Công Sơn rất nhiều, cũng được nhạc sỹ tặng cho một vài kỷ vật, kỷ vật nào và câu nói nào khiến ông nhớ mãi?
– Kỷ vật lớn nhất đó là tình cảm anh Sơn dành cho tôi, anh Sơn luôn nhắc một câu “Ca sỹ nào hát và phối nhạc kiểu gì cũng được miễn là hiểu mình!”.
– Cảm ơn ông về buổi trò chuyện thú vị, chúc ông thuộc được nhiều hơn nữa những ca khúc của người nhạc sỹ tài hoa này!
Nhà thơ Trần Đăng Khoa
Câu hỏi của chị lại làm tôi nhớ đến một kỷ niệm với với F. Gerke, người em kết nghĩa của Trịnh Công Sơn. Chuyện này tôi cũng đã kể ở đâu đó rồi.
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ có nhiều người hâm mộ nhất. Đi đến đâu, tôi cũng thấy người ta hát ca khúc của anh. Nhạc Trịnh không chỉ ngự trị khắp mọi xó xỉnh của xứ Việt này mà còn len lỏi đến tận những ngóc ngách sâu thẳm nhất trong cõi tinh thần của người Việt ở Hải ngoại. Dường như ở đâu, Trịnh Công Sơn cũng có người yêu mến. Nhưng có lẽ cho đến tận lúc giã biệt cõi đời này, nhạc sĩ cũng không biết anh có một khán giả ngoại quốc còn say anh cuồng nhiệt hơn bất cứ người hâm mộ nào. Đó là vị giáo sư trẻ người Đức Frank Gerke.
Tôi biết Frank Gerke cũng rất tình cờ. Dịp tôi qua Đức, anh là người phiên dịch cho tôi. Theo sự bố trí của bạn, Frank Gerke sẽ cùng tôi đến thăm một số thành phố. Còn một tuần đầu, người dịch cho tôi là chị Grit Seidel, một cô gái trẻ, là nữ phiên dịch tiếng Nga ở Bộ Ngoại giao Đức. Grit Seidel nói tiếng Nga như một người Nga. Chúng tôi đến thăm nhà Gớt, thăm Trung tâm Xuất bản sách báo Frank Fuork, rồi gặp gỡ các Tổng biên tập của mấy tờ báo tư nhân. Buổi chiều cuối cùng ở thành phố này, chúng tôi xem phim rồi Grit Seidel bàn giao công việc cho Frank Gerke. Theo đúng lịch trình, 5 giờ chiều, tôi và Frank Gerke lên tàu đi Weima. Nhưng 4 giờ vẫn chưa liên lạc được với F. Gerke. Grit Seidel bắt đầu thấy lo lắng: “Tôi đã điện cho Trung tâm Báo chí, rồi điện về Trường đại học Bonn. Chẳng ai biết F. Gerke ở đâu cả. Hay anh ấy bị tai nạn rồi…”.
Người Đức làm việc rất chuẩn xác. Nếu lỡ hẹn thì chỉ có thể bị tai nạn. Nhưng F. Gerke không hề lỡ hẹn. Anh đã chờ chúng tôi từ 3 rưỡi chiều ở sảnh khách sạn. Đó là một người đàn ông cao lớn, trắng trẻo, tóc đen mướt, vai đeo chiếc ba lô to xù. Tay lại xách theo cây đàn ghi ta. Trên ngực áo đen là mảnh băng đen. Mảnh băng khâu thẳng vào áo. Hóa ra nhà anh mới có tang. Tôi muốn nói với anh mấy lời chia buồn…
– Tôi để tang anh Sơn đấy. Tôi là em của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!
F. Gerke bắt đầu câu chuyện bằng một giọng trầm trầm. Tôi kinh ngạc khi thấy anh nói tiếng Việt rất chuẩn, lại kinh ngạc hơn khi biết Trịnh Công Sơn lại có người nhà là một ông Tây mắt xanh mũi lõ ở bên này…
– Không, anh Sơn chẳng có họ hàng gì với tôi cả, F. Gerke thanh minh – Anh ấy không chắc đã nhớ được tôi. Nhưng tôi thì rất yêu anh ấy và lúc nào cũng nhớ anh ấy…
Con tàu đã rời ga Frank Four từ lúc nào rồi. Bồng bềnh hai bên cửa sổ là những ngôi nhà và những vườn cây, những cánh đồng lúa mì xanh ngăn ngắt. Thiên nhiên Đức đang tự vẽ ra những bức tranh tuyệt vời của Lêvitan. Nhưng Frank Gerke dường như không quan tâm lắm đến phong cảnh thiên nhiên luôn biến ảo suốt hai bên cửa sổ toa tàu.

Frank Gerke – Trịnh Công Long – “Ông Tây” mang họ Trịnh đang “phiêu” cùng nhạc Trịnh Công Sơn.
– Khi được tin anh Sơn mất, tôi đang dạy Lịch sử Việt Nam ở Trường đại học Bonn. Vợ tôi báo cho tôi qua điện thoại. Nhưng tôi không tin. Vì đó là ngày cá tháng Tư. Ai tin được cái điều vô lý như thế? Tôi điện về Việt Nam. Hóa ra anh Sơn đi thật. Thế là tôi bỏ dạy, về nhà. Tôi ốm lơ ốm lửng một tuần liền. Người sút đến 3 ký…
– Rất cảm ơn anh đã hết lòng yêu mến một nhạc sĩ tài năng của chúng tôi. Tôi cũng yêu nhạc Trịnh Công Sơn lắm. Nhưng rất tiếc là chưa có dịp nào được tiếp xúc với anh ấy…
– Thế thì đó là một thiệt thòi của anh – F. Gerke khẳng định – Khi biết anh sang đây, tôi định điện cho ông Nguyễn Quang Sáng, hỏi xem anh là người như thế nào. Nhưng rồi thôi. Tôi muốn tự tìm hiểu, khám phá. Anh biết yêu nhạc Trịnh Công Sơn, như thế có nghĩa anh là người tử tế…
F. Gerke lại cười. Còn tôi thì kinh ngạc. Tôi chưa thấy ai lại mang nhạc Trịnh ra làm thước đo, đánh giá con người.- Anh gặp ông Sơn trong trường hợp nào?
– Lâu rồi. Khi ấy, tôi còn ở Tây Nguyên, làm phiên dịch cho một công ty cà phê của Đức đặt văn phòng ở Ban Mê Thuột. Tôi nghe nhạc anh Sơn và thấy mê. Nhạc anh Sơn rất đặc biệt. Anh có để ý không? Bài nào cũng chỉ phất phơ có mấy nét thôi, cứ như là nhạc của trẻ con ấy. Nhưng nghe là nhớ ngay. Trịnh Công Sơn đã đạt được đến độ cao nhất của nghệ thuật. Đó là sự giản dị. Tôi yêu nhạc anh Sơn, rồi tìm đến thăm anh ấy. Thế rồi anh em biết nhau. Đơn giản thế thôi mà…
Nói rồi, F. Gerke ôm đàn hát. Anh hát hay lạ lùng. Lại bắt chước y hệt Trịnh Công Sơn. Đến nỗi, nhắm mắt lại, ta có thể nhầm tưởng là Trịnh Công Sơn đang hát.
– Tôi có cái băng của Trịnh Công Sơn. Chính anh Sơn đã dạy tôi hát đấy. Tôi hát theo băng mà – F. Gerke nói – Anh bảo chỉ có Khánh Ly hát mới ra Trịnh Công Sơn ư? Anh nhầm đấy. Người hát hay nhất nhạc Trịnh chính là Trịnh Công Sơn. Sau Trịnh mới đến Khánh Ly. Sau Khánh Ly là không còn ai nữa. Hồng Nhung chỉ hát tàm tạm được một đôi bài. Còn các ca sĩ khác thì không thể chấp nhận được. Trịnh Công Sơn có một chùm ca khúc viết tặng Hồng Nhung. Nhưng ngay chính chùm ca khúc dành cho riêng mình ấy, Hồng Nhung hát vẫn không bằng được Khánh Ly. Thế mới đau chứ. Còn Thanh Lam thì chán lắm. Mặc dù giọng cô ấy rất tốt. Nhưng cô ấy cứ thích hú hét. Mang Trịnh Công Sơn ra hú thì bằng bóp cổ anh ấy rồi…
Frank Gerke quay ra cửa sổ. Nhưng hình như anh chẳng nhìn thấy gì.
– Trịnh Công Sơn là một nửa âm nhạc Việt Nam. Mặc dù nhạc Cách mạng của các anh rất hay. Hầu như bài nào cũng hay. Khỏe khoắn, hùng tráng. Nhưng đó là nhạc hội, nhạc vui. Nhạc cho tất cả mọi người. Hầu hết nhạc sĩ các anh đều viết cho đám đông. Người ta hát khi vui, hát ở chỗ đông người. Trịnh Công Sơn không phải không làm được những ca khúc cho các đám hội. Anh đã từng có Nối vòng tay lớn. Nhưng anh không dành nhiều tâm huyết cho những đám đông. Hình như anh ấy biết các nhạc sĩ khác tài hơn anh ấy ở thể loại nhạc này. Bởi thế, hầu hết nhạc anh Sơn là nhạc chỉ dành cho một người thôi. Khi nào buồn, khi nào cô đơn đến tuyệt vọng mà không còn biết nương tựa vào đâu nữa, người ta tìm về với Trịnh. Trịnh sẽ đón họ, nâng đỡ an ủi họ. Trịnh còn có riêng một bài hát về nỗi tuyệt vọng: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng…”. Các bài khác hầu như cũng tương tự thế. Vì vậy, tôi mới bảo Trịnh Công Sơn là một nửa âm nhạc Việt Nam. Tất nhiên, nếu chỉ có Trịnh Công Sơn thì âm nhạc Việt Nam cũng méo mó và ốm yếu, nhưng nếu chỉ có âm nhạc Cách mạng mà thiếu Trịnh Công Sơn thì nền âm nhạc của các anh vẫn chưa hoàn thiện, vì nó vẫn thiếu một mảng riêng tư rất cần thiết cho đời sống con người. Nhạc Trịnh hay lắm. Hay một cách thấm thía. Lời ca của anh ấy rất đẹp. Đẹp như thơ…
– Còn hơn thơ ấy chứ – Tôi góp thêm – Thậm chí có những lời ca của anh ấy, bọn thi sĩ chúng tôi không viết nổi đâu…
– Nhưng cũng không nên vì thế mà lại bảo anh ấy là một nhà thơ lớn. Ông Nguyễn Quang Sáng còn nói thế đấy? Nói thế là nói liều đấy. Mà hình như rượu nói chứ không phải ông Sáng nói. Ca từ của Trịnh Công Sơn chỉ đẹp khi nó nằm trong giai điệu của Trịnh thôi, tách ra khỏi âm nhạc, để nó đứng độc lập như một bài thơ thì nó đâu có phải thơ. Trịnh Công Sơn có làm thơ đâu. Anh ấy viết nhạc đấy chứ. Tôi rất yêu nhạc Trịnh. Yêu như một tín đồ của anh ấy. Nhưng cũng phải thành thật mà nói rằng, nhạc Trịnh nghe lẻ từng bài thì rất hay. Nhưng nghe cả một cuộn băng thì lại thấy mệt vì đơn điệu. Ông Văn Cao của các anh đa dạng hơn nhiều, phong phú hơn nhiều, mặc dù so với Trịnh Công Sơn, ông ấy viết ít hơn…
F. Gerke đã thực sự hiện nguyên hình một con ma xó. Anh ứng tác thơ lục bát bằng tiếng Việt. Rồi anh hát chèo, hát dân ca quan họ và ca cải lương, ca bài chòi. Thật khó mà hình dung F. Gerke lại là một người Đức. Nếu cứ nhắm mắt nghe anh nói thì ta có thể lầm tưởng mình đang nhậu với một anh Hai nào đó ở Sài Gòn…
– Anh biết tôi học tiếng Việt ở đâu không? F. Gerke hỏi – Học ở quán Mộc Tồn đấy. Cánh bợm nhậu dạy tôi. Rồi tôi nói tùm lum tà la…
Hôm cuối cùng tôi ở nước Đức, bạn bè người Việt ở Nhà văn hóa Việt Nam tổ chức cuộc gặp gỡ rồi sau đó là một bữa tiệc thịt dê. Thịt dê “đánh” từ Việt Nam sang. Tưng bừng chả kém gì Hà Nội. Trong men rượu ngà ngà, Frank Gerke đề nghị mỗi người góp một câu thơ theo giọng Bút Tre để “Chào mừng nhà thơ Trần Đăng Khoa” rồi anh hào hứng mở đầu:
– Yêu nhau, góp tí máu dê – Mừng anh Văn Khỏa từ quê sang đầy… Văn Khỏa nghĩa là Trần Đăng Khoa đấy…
Thế rồi nhà thơ Phạm Kỳ Đăng, nhà văn Nguyễn Văn Thọ, vợ chồng nghệ sĩ Tôn Nữ Nguyệt Minh, nhà nghiên cứu, dịch giả Trương Hồng Quang…, nói như F. Gerke, mỗi người góp một tí “máu dê”, thành một bài thơ khá dài, rồi F. Gerke kết thúc:
– Ra về hãy nhớ lời thề – Yêu nhau cứ phải thịt dê tương gừng – Em phừng phừng, tớ phừng phừng – Bố thằng nào dám lẫy lừng vào đây… – F. Gerke cười khục khục – Tôi cứ kết hợp cụ Đồ Chiểu với thi sĩ Nguyễn Duy ông anh tôi cho có tính dân tộc.
Lúc tiễn tôi ra sân bay về nước, F. Gerke nhờ tôi chuyển lời thăm của anh tới nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Nguyễn Duy và nhạc sĩ Bảo Phúc. Rồi anh đọc câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng mà anh rất khoái: “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi – Đi lên đi xuống đã đời du côn”. Anh thấy tôi có “du côn” không, anh Khoa? – F. Gerke quay lại hỏi tôi bằng một giọng đặc sệt Sài Gòn – Anh Sơn bảo ở trong tôi có đến 99% là dòng máu Việt, còn Đức chỉ có 1% thôi. Tôi thì ngờ, hình như trong tôi không có đủ 1% dòng máu Đức – F. Gerke cười hô hố – Tôi đang phấn đấu trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Về già, tôi sẽ đưa vợ con sang Việt Nam ở. Chúng tôi sẽ mua một căn nhà lá nào đó ở một miệt vườn, rồi làm một ông già Nam Bộ. Thật đấy: “Qua nghĩ chán, sống nghĩa là xả láng – Ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu – Nhà lá bùng binh che lá dừa lá mía – Nón lá qua loa nhưng nhậu phải đều đều…”.